Nhãn áp là gì? Các công bố khoa học về Nhãn áp
Nhãn áp là một thuật ngữ được sử dụng trong lĩnh vực kỹ thuật và vật lý, nó thể hiện sự khác biệt áp suất giữa hai điểm trong một hệ thống. Nhãn áp được tính bằ...
Nhãn áp là một thuật ngữ được sử dụng trong lĩnh vực kỹ thuật và vật lý, nó thể hiện sự khác biệt áp suất giữa hai điểm trong một hệ thống. Nhãn áp được tính bằng cách lấy hiệu áp suất giữa hai điểm và xác định chiều của áp suất. Nếu áp suất tại điểm thứ nhất lớn hơn áp suất tại điểm thứ hai, thì nhãn áp là dương (+). Ngược lại, nếu áp suất tại điểm thứ nhất nhỏ hơn áp suất tại điểm thứ hai, thì nhãn áp là âm (-).
Nhãn áp (pressure differential) là sự khác biệt về áp suất giữa hai điểm trong một hệ thống. Nó cũng được gọi là áp suất chênh lệch. Nhãn áp có thể được tính toán bằng cách lấy hiệu áp suất giữa hai điểm và xác định chiều của áp suất.
Khi hai điểm có áp suất khác nhau, sự chuyển đổi năng lượng có thể xảy ra, thông qua dòng chảy, bơm, máy nén hoặc các thiết bị khác. Nhãn áp thường được sử dụng để đo lường sự chênh lệch áp suất trong các hệ thống dòng chảy, hệ thống cung cấp khí, hệ thống làm lạnh, hệ thống điều hòa không khí và hệ thống đường ống.
Để đảm bảo hoạt động hiệu quả của hệ thống, nhãn áp thường được giám sát và kiểm soát. Nếu nhãn áp quá cao hoặc quá thấp, nó có thể gây ra các vấn đề như suy giảm hiệu suất, hỏng hóc và nguy hiểm cho sự an toàn. Nhãn áp cũng được sử dụng để đánh giá hiệu quả hoạt động của các thiết bị và hệ thống, và để xác định năng lượng tiêu thụ và tiêu thụ của chúng.
Ví dụ, trong hệ thống dòng chảy, nhãn áp có thể cho biết sự chênh lệch áp suất giữa vị trí vào (đầu vào) và vị trí ra (đầu ra) của ống dẫn. Nhãn áp được đo bằng đơn vị áp suất như psi (pound per square inch) hoặc Pa (Pascal), và có thể biểu thị dưới dạng giá trị tuyệt đối hoặc giá trị tương đối so với áp suất chứa đổ vào (átmosfer) hoặc áp suất tĩnh (zero pressure reference).
Hiểu được nhãn áp và kiểm soát chúng là rất quan trọng trong việc thiết kế, xây dựng và vận hành các hệ thống kỹ thuật, đảm bảo hoạt động hiệu quả và bảo đảm an toàn.
Nhãn áp (pressure differential) thường được được đo và biểu thị dưới dạng áp suất tuyệt đối hoặc áp suất tương đối. Dưới đây là thêm một số chi tiết về hai cách biểu thị này:
1. Áp suất tuyệt đối: Áp suất tuyệt đối là áp suất theo giá trị tuyệt đối, không so sánh với áp suất chuẩn như áp suất kích thước (absolute pressure). Thông thường được đo bằng đơn vị áp suất như psi (pound per square inch), bar, Pascal, kilopascal (kPa) hoặc độ mật độ của chất lỏng (mmHg hoặc cmH2O). Khi đo áp suất tuyệt đối, điểm đo thường được so sánh với một điểm tham chiếu, thường là áp suất không khí ở môi trường xung quanh.
2. Áp suất tương đối: Áp suất tương đối (gauge pressure) là áp suất so với áp suất môi trường. Nó được đo bằng cách trừ đi áp suất môi trường khỏi áp suất tuyệt đối. Thông thường được biểu thị bằng đơn vị áp suất như psi (pound per square inch), bar hoặc kilopascal (kPa). Áp suất tương đối thường được đo và sử dụng để giám sát sự thay đổi áp suất trong các hệ thống và thiết bị, ví dụ như áp suất trong hệ thống điều hòa không khí hoặc trong lốp xe.
Trong cả hai trường hợp, nhãn áp có thể được đo và theo dõi bằng các thiết bị đo áp suất như bồn đo áp suất, bộ chuyển đổi áp suất (pressure transducer) hoặc bộ đo áp suất đồng hồ (pressure gauge). Thông tin về nhãn áp có thể giúp giám sát, điều chỉnh và điều khiển áp suất trong hệ thống để đảm bảo hoạt động an toàn và hiệu quả.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "nhãn áp":
Nghiên cứu sự phân hủy lipid trong cá đông lạnh đã dẫn đến việc phát triển một phương pháp đơn giản và nhanh chóng để chiết xuất và tinh chế lipid từ các vật liệu sinh học. Toàn bộ quy trình có thể được thực hiện trong khoảng 10 phút; nó hiệu quả, có thể tái lập và không có sự thao tác gây hại. Mô ướt được đồng nhất hóa với hỗn hợp chloroform và methanol theo tỷ lệ sao cho hệ thống tan được hình thành với nước trong mô. Sau khi pha loãng với chloroform và nước, dịch đồng nhất được phân tách thành hai lớp, lớp chloroform chứa toàn bộ lipid và lớp methanol chứa tất cả các hợp chất không phải là lipid. Một chiết xuất lipid tinh khiết được thu nhận chỉ đơn giản bằng cách tách lớp chloroform. Phương pháp này đã được áp dụng cho cơ cá và có thể dễ dàng thích nghi để sử dụng với các mô khác.
Việc sử dụng tương tác avidin-biotin trong các kỹ thuật miễn dịch enzym cung cấp một phương pháp đơn giản và nhạy cảm để định vị kháng nguyên trong các mô được cố định bằng formalin. Trong số nhiều phương pháp nhuộm có sẵn, phương pháp ABC, liên quan đến việc áp dụng kháng thể thứ cấp được gán nhãn biotin, tiếp theo là sự bổ sung của phức hợp avidin-biotin-peroxidase, mang lại kết quả vượt trội so với phương pháp dùng kháng thể không được gán nhãn. Sự sẵn có của các vị trí gắn biotin trong phức hợp được tạo ra bởi việc ủ một lượng tương đối dư thừa avidin với peroxidase được gán nhãn biotin. Trong quá trình hình thành phức hợp, avidin đóng vai trò như một cầu nối giữa các phân tử peroxidase được gán nhãn biotin; và các phân tử peroxidase được gán nhãn biotin, có chứa nhiều nhóm biotin, hoạt động như một liên kết giữa các phân tử avidin. Do đó, một phức hợp "lattice" chứa nhiều phân tử peroxidase có khả năng được hình thành. Việc gắn kết phức hợp này với các nhóm biotin liên quan đến kháng thể thứ cấp dẫn đến cường độ nhuộm cao.
Làm thế nào chúng ta nên hiểu tại sao doanh nghiệp tồn tại? Một quan điểm phổ biến đã cho rằng chúng nhằm kiểm soát chi phí giao dịch phát sinh từ động lực tự lợi của cá nhân. Trong bài viết này, chúng tôi phát triển luận điểm rằng điều mà doanh nghiệp làm tốt hơn thị trường là chia sẻ và chuyển tải kiến thức của cá nhân và nhóm trong một tổ chức. Kiến thức này bao gồm thông tin (ví dụ: ai biết cái gì) và kỹ năng (ví dụ: làm thế nào để tổ chức một nhóm nghiên cứu). Điều cốt lõi trong luận điểm của chúng tôi là kiến thức được giữ bởi cá nhân, nhưng cũng được biểu hiện qua quy luật mà các thành viên hợp tác trong một cộng đồng xã hội (tức là nhóm, tổ chức, hoặc mạng lưới). Nếu kiến thức chỉ được giữ ở cấp độ cá nhân, thì doanh nghiệp có thể thay đổi chỉ bằng việc thay đổi nhân viên. Bởi vì chúng ta biết rằng thuê nhân sự mới không tương đương với việc thay đổi kỹ năng của doanh nghiệp, việc phân tích những gì doanh nghiệp có thể làm phải hiểu biết kiến thức như là nhúng trong nguyên tắc tổ chức mà con người hợp tác trong các tổ chức.
Dựa trên thảo luận này, một nghịch lý được xác định: những nỗ lực của doanh nghiệp để mở rộng bằng cách nhân bản công nghệ của mình tăng cường khả năng bắt chước. Bằng cách xem xét làm thế nào doanh nghiệp có thể ngăn chặn bắt chước bằng sự sáng tạo, chúng tôi phát triển một cái nhìn năng động hơn về cách các doanh nghiệp tạo ra kiến thức mới. Chúng tôi xây dựng quan điểm năng động này bằng cách đề xuất rằng doanh nghiệp học những kỹ năng mới bằng cách kết hợp lại các khả năng hiện có của mình. Bởi vì các cách hợp tác mới không dễ dàng được thu nhận, sự tăng trưởng xảy ra bằng cách xây dựng trên các mối quan hệ xã hội hiện có trong một doanh nghiệp. Những gì một doanh nghiệp đã làm trước đây có xu hướng dự đoán những gì nó có thể làm trong tương lai. Theo nghĩa này, kiến thức tích luỹ của doanh nghiệp cung cấp các lựa chọn để mở rộng vào các thị trường mới nhưng không chắc chắn trong tương lai.
Chúng tôi thảo luận chi tiết ví dụ về quyết định sản xuất/mua và đề xuất một số giả thuyết có thể kiểm chứng về ranh giới của doanh nghiệp, mà không cần viện đến khái niệm "cơ hội."
Nhiều phương pháp giảng dạy mặc nhiên cho rằng kiến thức khái niệm có thể được trừu xuất từ các tình huống mà nó được học và sử dụng. Bài viết này lập luận rằng giả định này không thể tránh khỏi việc hạn chế hiệu quả của các phương pháp như vậy. Dựa trên nghiên cứu mới nhất về nhận thức trong hoạt động hàng ngày, các tác giả lập luận rằng kiến thức là định vị, là một phần sản phẩm của hoạt động, bối cảnh và văn hóa nơi nó được phát triển và sử dụng. Họ thảo luận về việc quan điểm này ảnh hưởng đến sự hiểu biết của chúng ta về học tập như thế nào, và họ nhận thấy rằng trường học truyền thống quá thường xuyên bỏ qua tầm ảnh hưởng của văn hóa trường học lên những gì được học ở trường. Như một giải pháp thay thế cho các thực tiễn truyền thống, họ đề xuất học nghề nhận thức (Collins, Brown, & Newman, đang chuẩn bị xuất bản), mở rộng đặc trưng bản chất định vị của kiến thức. Họ xem xét hai ví dụ về giảng dạy toán học thể hiện những đặc điểm chính của cách tiếp cận này đối với giảng dạy.
Việc phát hiện quang học và phân tích quang phổ của các phân tử đơn lẻ và các hạt nano đơn đã được thực hiện ở nhiệt độ phòng thông qua việc sử dụng tán xạ Raman cường cường độ bề mặt. Các hạt nano colloidal bạc đơn lẻ đã được sàng lọc từ một quần thể lớn không đồng nhất dựa trên các đặc tính phụ thuộc kích thước đặc biệt và sau đó được sử dụng để khuếch đại các dấu hiệu quang phổ của các phân tử hấp phụ. Đối với các phân tử đơn lẻ rhodamine 6G hấp phụ trên các hạt nano đã chọn, các hệ số khuếch đại Raman nội tại đạt mức từ 1014 đến 1015, lớn hơn nhiều so với các giá trị trung bình của quần thể thu được từ các phép đo thông thường. Sự khuếch đại to lớn này dẫn tới các tín hiệu dao động Raman có cường độ mạnh hơn và ổn định hơn so với huỳnh quang của phân tử đơn.
We have designed two taxon‐selective primers for the internal transcribed spacer (ITS) region in the nuclear ribosomal repeat unit. These primers, ITS1‐F and ITS4‐B, were intended to be specific to fungi and basidiomycetes, respectively. We have tested the specificity of these primers against 13 species of ascomycetes, 14 of basidiomycetes, and 15 of plants. Our results showed that ITS4‐B, when paired with either a ‘universal’ primer ITS1 or the fungal‐specific primer ITS1‐F, efficiently amplified DNA from all basidiomycetes and discriminated against ascomycete DNAs. The results with plants were not as clearcut. The ITS1‐F/ITS4‐B primer pair produced a small amount of PCR product for certain plant species, but the quantity was in most cases less than that produced by the ‘universal’ ITS primers. However, under conditions where both plant and fungal DNAs were present, the fungal DNA was amplified to the apparent exclusion of plant DNA. ITS1‐F/ITS4‐B preferential amplification was shown to be particularly useful for detection and analysis of the basidiomycete component in ectomycorrhizae and in rust‐infected tissues. These primers can be used to study the structure of ectomycorrhizal communities or the distribution of rusts on alternate hosts.
Trong khi phần lớn hóa học hữu cơ truyền thống tập trung vào việc chuẩn bị và nghiên cứu tính chất của các phân tử
Các tác giả trình bày tổng quan về bằng chứng hiện tại và khuyến nghị quản lý cho việc đánh giá và điều trị người lớn bị đột quỵ thiếu máu cục bộ cấp tính. Đối tượng được chỉ định là những người cung cấp dịch vụ chăm sóc trước khi nhập viện, các bác sĩ, chuyên gia y tế khác và các nhà quản lý bệnh viện chịu trách nhiệm chăm sóc bệnh nhân đột quỵ thiếu máu cục bộ cấp tính trong vòng 48 giờ đầu kể từ khi khởi phát đột quỵ. Những hướng dẫn này thay thế cho hướng dẫn trước đó vào năm 2007 và những cập nhật năm 2009.
Các thành viên của ủy ban viết được chỉ định bởi Ủy ban quản lý tuyên bố khoa học của Hội đồng Đột quỵ của Hiệp hội Đột quỵ Hoa Kỳ, đại diện cho nhiều lĩnh vực chuyên môn y học khác nhau. Sự tuân thủ chặt chẽ với chính sách xung đột lợi ích của Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ đã được duy trì trong suốt quá trình đồng thuận. Các thành viên của hội đồng được phân công các chủ đề liên quan đến lĩnh vực chuyên môn của họ, đã xem xét tài liệu về đột quỵ với trọng tâm là các ấn phẩm từ khi có hướng dẫn trước đó và soạn thảo khuyến nghị phù hợp với thuật toán phân loại bằng chứng của Hội đồng Đột quỵ của Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ.
Mục tiêu của những hướng dẫn này là hạn chế tỷ lệ mắc bệnh và tử vong liên quan đến đột quỵ. Các hướng dẫn này ủng hộ khái niệm tổng thể về hệ thống chăm sóc đột quỵ và chi tiết các khía cạnh của việc chăm sóc đột quỵ từ việc nhận biết bệnh nhân; kích hoạt, vận chuyển và phân loại các dịch vụ y tế khẩn cấp; thông qua những giờ đầu tiên tại khoa cấp cứu và đơn vị đột quỵ. Hướng dẫn thảo luận về đánh giá đột quỵ sớm và chăm sóc y tế tổng quát, cũng như các can thiệp cụ thể cho đột quỵ thiếu máu cục bộ như các chiến lược tái tưới máu và tối ưu hóa sinh lý tổng quát để hồi sức não.
Các sự mơ hồ về khái niệm và phương pháp xung quanh khái niệm kiểm soát hành vi cảm nhận đã được làm rõ. Nghiên cứu chỉ ra rằng kiểm soát cảm nhận đối với việc thực hiện một hành vi, mặc dù bao gồm các yếu tố tách rời phản ánh các niềm tin về tự tin và khả năng kiểm soát, có thể được xem là một biến tiềm ẩn thống nhất trong một mô hình yếu tố phân cấp. Hơn nữa, nghiên cứu lập luận rằng không có sự tương ứng cần thiết giữa tự tin và các yếu tố kiểm soát nội bộ, hay giữa khả năng kiểm soát và các yếu tố kiểm soát bên ngoài. Tự tin và khả năng kiểm soát có thể phản ánh cả các yếu tố bên trong và bên ngoài, và mức độ mà chúng phản ánh yếu tố nào là một câu hỏi thực nghiệm. Cuối cùng, một trường hợp được đưa ra rằng các phép đo kiểm soát hành vi cảm nhận cần phải bao gồm các mục tự tin cũng như khả năng kiểm soát được lựa chọn cẩn thận để đảm bảo tính nhất quán cao nội bộ.
Kiểm soát cảm nhận đối với việc thực hiện một hành vi có thể giải thích một biến thiên đáng kể trong ý định và hành động. Tuy nhiên, những sự mơ hồ xung quanh khái niệm kiểm soát hành vi cảm nhận thường tạo ra sự không chắc chắn và cản trở sự tiến bộ. Bài viết hiện tại cố gắng làm rõ những sự mơ hồ khái niệm và giải quyết các vấn đề liên quan đến việc hiện thực hóa kiểm soát hành vi cảm nhận. Nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng khái niệm tổng thể về kiểm soát hành vi cảm nhận, như thường được đánh giá, bao gồm hai thành phần: tự tin (liên quan chủ yếu đến sự dễ dàng hoặc khó khăn của việc thực hiện một hành vi) và khả năng kiểm soát (mức độ mà việc thực hiện phụ thuộc vào diễn viên). Trái ngược với quan điểm phổ biến, nghiên cứu lập luận rằng kỳ vọng tự tin không nhất thiết tương ứng với niềm tin về các yếu tố kiểm soát nội bộ, và rằng kỳ vọng khả năng kiểm soát không có cơ sở cần thiết trong sự hoạt động cảm nhận của các yếu tố bên ngoài. Thay vào đó, đã có đề xuất rằng tự tin và khả năng kiểm soát có thể đều phản ánh niềm tin về sự hiện diện của các yếu tố nội bộ cũng như bên ngoài. Thay vì đưa ra các giả định tiên nghiệm về trung tâm nội bộ hay bên ngoài của tự tin và khả năng kiểm soát, vấn đề này tốt nhất nên được coi là một câu hỏi thực nghiệm.
Cũng có tầm quan trọng lý thuyết, bài viết hiện tại cố gắng xóa tan quan niệm rằng tự tin và khả năng kiểm soát là tương phản hoặc độc lập với nhau. Mặc dù phân tích yếu tố của các mục kiểm soát hành vi cảm nhận cung cấp bằng chứng rõ ràng và nhất quán cho sự phân biệt, vẫn có đủ điểm chung giữa tự tin và khả năng kiểm soát để gợi ý một mô hình phân cấp hai mức. Trong mô hình này, kiểm soát hành vi cảm nhận là cấu trúc tổng thể, cấp trên bao gồm hai thành phần cấp thấp: tự tin và khả năng kiểm soát. Quan điểm này về thành phần kiểm soát trong lý thuyết hành vi được lập kế hoạch ngụ ý rằng các phép đo kiểm soát hành vi cảm nhận nên bao gồm các mục đánh giá tự tin cũng như khả năng kiểm soát. Tùy thuộc vào mục đích của cuộc điều tra, có thể đưa ra quyết định để tổng hợp tất cả các mục, coi kiểm soát hành vi cảm nhận là một yếu tố thống nhất, hoặc phân biệt giữa tự tin và khả năng kiểm soát bằng cách đưa vào các chỉ số riêng biệt vào phương trình dự đoán.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10